Ung thư cổ tử cung có chữa được không?
Tác giả: uyennguyen
Trong 25 loại ung thư thường gặp ở phụ nữ Việt, ung thư cổ tử cung phổ biến thứ 4; sau vú, phổi, gan. Ước tính, mỗi năm Việt Nam có 5.146 người mắc và 2.423 ca tử vong vì bệnh.
Ước tính mỗi ngày có 7 phụ nữ Việt tử vong do ung thư cổ tử cung
Khoảng 37,7 triệu nữ giới trên 15 tuổi có nguy cơ mắc bệnh. Trong đó, chị em sau 40 tuổi có tỷ lệ mắc và tử vong cao nhất. 95% trường hợp ung thư cổ tử cung do virus gây u nhú ở người HPV (Human Papilloma Virus). Virus HPV lây nhiễm qua đường tiếp xúc, quan hệ tình dục, từ mẹ sang con (khi sinh đẻ) và có thể tồn tại trong cơ thể hàng chục năm trước khi phát bệnh.
Hiện, các nhà khoa học phát hiện ra hơn 100 chủng HPV gây bệnh ở người. Trong đó, chủng HPV 16 là nguy hiểm nhất, chiếm gần 50% các trường hợp. Chủng HPV 18 xếp thứ 2, với 34%. HPV có thể gây ra ung thư cổ tử cung, âm hộ, âm đạo ở nữ; ung thư dương vật ở nam; mụn cóc sinh dục (sùi mào gà), ung thư hầu họng, hậu môn ở cả 2 giới.
Tuy nhiên, theo nghiên cứu đăng tải tháng 6/2017 trên Jounal of Infection and Public Health, nhiều phụ nữ Việt hiểu biết ít về virus HPV.
Trước đó, các chuyên gia Đại học Utah, Đại học Y khoa Texas, Đại học Quốc gia TP HCM gửi bảng hỏi đến 932 sinh viên Việt Nam và Mỹ vào tháng 10/2016. Kết quả cho thấy, không chỉ trang bị ít kiến thức về virus HPV, nữ sinh Việt còn chủ quan với bệnh.
Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Mỹ (CDC), trên thế giới, ít nhất 50% người trưởng thành nhiễm virus HPV vào bất kỳ thời điểm nào trong đời. Với 90% trường hợp, hệ miễn dịch sẽ tự đào thải HPV trong 1-2 năm. Song nếu cơ thể suy giảm đề kháng, chúng sẽ tấn công và gây bệnh. Triệu chứng thường không rõ ràng, nên bệnh nhân dễ lây truyền cho người khác, chỉ tình cờ phát hiện qua xét nghiệm phụ khoa.
Phó giáo sư, Tiến sĩ, bác sĩ Võ Minh Tuấn – Phó chủ nhiệm Bộ môn Sản phụ khoa, Đại học Y Dược TP HCM cho biết, ung thư cổ tử cung ảnh hưởng tới sức khỏe, công việc và cuộc sống vợ chồng. Căn bệnh này có thể tước đi thiên chức làm mẹ của người phụ nữ. Bệnh nhân có thể chữa khỏi, bảo tồn thiên chức làm mẹ, nếu được phát hiện sớm.
Dấu hiệu nhận biết sớm
Phát hiện sớm các triệu chứng ung thư cổ tử cung có thể giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh và chữa trị sớm. 99,7% nguyên nhân gây bệnh do virus HPV gây ra, nó không có triệu chứng điển hình mà nhìn vào có thể biết được. Ngay cả giai đoạn tiền ung thư cổ tử cung cũng không có biểu hiện rõ ràng. Để phát hiện bệnh, phụ nữ nên đi khám phụ khoa đều đặn, làm các biện pháp sàng lọc. Tuy nhiên đó chỉ là giải pháp thứ cấp. Chúng ta có thể chủ động phòng ngừa bằng cách tiêm phòng vắcxin ngừa HPV.
Liên quan đến virus HPV gây sùi mào gà mà các bé trai ở Hưng Yên, bác sĩ Linh cho biết, nguyên nhân gây sùi mào gà do virus HPV gây ra nhưng có nhiều nhóm HPV khác nhau. Thực chất nguyên nhân gây sùi mào gà là virus HPV nhóm 6 và 11, khác nhóm gây ung thư cổ tử cung. Dù khác nhóm nhưng sùi mào gà cũng có vắcxin dự phòng, nhưng khả năng lây nhiễm cao, biểu hiện sớm. Với HPV hiện không có thuốc trị virus, vì vậy khi nhiễm phải theo dõi sát và tầm soát. Nếu tầm soát tốt thì đa số phát hiện tiền ung thư và chữa thì hoàn toàn dứt điểm.
90% ung thư cổ tử cung có thể chữa nếu phát hiện sớm
Thời gian hình thành ung thư cổ tử cung kéo dài khoảng 5-20 năm. Nhiều người chẩn đoán mắc bệnh ở tuổi 40, nhưng mầm mống virus HPV đã âm thầm tồn tại trong cơ thể từ thời thiếu nữ. Theo bác sĩ Linh, phát hiện càng sớm thì khả năng chữa khỏi càng cao.
Giai đoạn tiền ung thư: Giai đoạn chớm nở này còn gọi là ung thư biểu mô tại chỗ. Các tế bào bất thường mới xuất hiện trong lớp lót bề mặt của cổ tử cung, chưa ăn sâu xuống mô chính và chưa lan ra các bộ phận khác trong cơ thể. Bác sĩ có nhiều phương pháp chữa trị tại chỗ mà vẫn giữ được chức năng tử cung và buồng trứng như khoét chóp (cắt một phần nhỏ cổ tử cung theo hình nón), phẫu thuật bằng vòng cắt đốt, lazer, hoặc đông lạnh tế bào ung thư bằng dung dịch nitơ lỏng…
Giai đoạn I: Tế bào ung thư đã xâm lấn mô chính của cổ tử cung, song vẫn chưa khu trú sang cơ quan khác. Bác sĩ sẽ quyết định cắt một phần hay toàn bộ tử cung, hoặc xạ trị. Các mô sẹo để lại sau phẫu thuật có thể gây hẹp cổ tử cung, ngăn chặn tinh trùng và trứng gặp nhau. Nếu cắt bỏ quá nhiều mô, phụ nữ mang thai trở lại có nguy cơ dọa sảy.
Giai đoạn II-III: Khối ung thư bắt đầu lan đến âm đạo cũng như các mô xung quanh cổ tử cung, xa hơn nữa có thể ra khắp vùng chậu. Điều trị chính bằng xạ trị phối hợp với hóa trị, không bảo tồn được chức năng sinh sản. Một số trường hợp có thể phẫu thuật nhưng thường phải cắt bỏ tử cung và buồng trứng, kết hợp thêm xạ và hóa trị.
Giai đoạn IV: Khối u lan ra ngoài vùng chậu đến các bộ phận gần đó như bàng quang, trực tràng hoặc di căn đến các cơ quan xa phổi, gan, xương…. Lúc này, điều trị khỏi rất khó khăn, chủ yếu nhằm kéo dài thời gian sống và giảm triệu chứng.
Bệnh càng tiến triển thì kỹ thuật điều trị càng phức tạp, gây đau đớn, chi phí tốn kém, thời gian sống giảm đi, khả năng khỏi bệnh thấp. Bác sĩ Linh cho biết, tỷ lệ khỏi ở giai đoạn tiền ung thư là 100%. Ở giai đoạn I, tỷ lệ đạt 85-90%, giảm dần đến giai đoạn II còn 50-75%, giai đoạn III 25-40% và chỉ có dưới 15% người bệnh ở giai đoạn IV còn sống sau 5 năm.
Dù không cắt bỏ tử cung, bệnh nhân vẫn đối diện với nguy cơ vô sinh nếu phải xạ hoặc hóa trị. Các tia bức xạ phát ra và hóa chất tiêu diệt tế bào ung thư đều có thể phá hủy trứng. Người bệnh cần trao đổi kỹ với bác sĩ, chọn phương pháp tối ưu, lưu trữ thêm buồng trứng… Ngoài ra, cần chủ động chăm sóc trẻ sinh ra từ mẹ nhiễm virus HPV, vì chúng có nguy cơ mắc chứng đa gai bướu cổ, suy hô hấp.
Việt Nam có khoảng 38 triệu nữ giới trên 15 tuổi có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung. Vì vậy nữ giới nên khám phụ khoa định kỳ, tầm soát ung thư hàng năm để phát hiện bệnh từ giai đoạn tiền ung thư. Ngoài ra, mọi người nên sinh hoạt tình dục lành mạnh, tiêm vắcxin phòng virus HPV để phòng tránh căn bệnh nguy hiểm này.
Theo Khoe.online tổng hợp